Bệnh phổi kẽ và tăng huyết áp phổi là những tình trạng sức khỏe tiềm ẩn nghiêm trọng có thể phát triển ở những người mắc bệnh xơ cứng hệ thống. Đây là hai nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở những người mắc bệnh này.
Xơ cứng hệ thống là một bệnh mô liên kết phức tạp và hiếm gặp, đặc trưng bởi tình trạng xơ hóa da và các cơ quan nội tạng. Mặc dù nguyên nhân chính xác của xơ cứng hệ thống vẫn chưa được biết rõ, nhưng người ta tin rằng nó liên quan đến phản ứng bất thường đối với tổn thương mạch máu nhỏ ở những cá nhân có cơ địa dễ mắc bệnh và/hoặc biến đổi biểu sinh, dẫn đến rối loạn miễn dịch, viêm, bệnh lý mạch máu nhỏ và xơ hóa.
Triệu chứng bệnh phổi kẽ
Bệnh phổi kẽ xảy ra ở phần lớn bệnh nhân mắc xơ cứng hệ thống và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến xơ cứng hệ thống. Mặc dù có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng nguy cơ phát triển bệnh phổi kẽ là lớn nhất vào giai đoạn đầu của xơ cứng hệ thống, do đó bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ trong vài năm đầu sau khi chẩn đoán.
Ho và khó thở là những triệu chứng thường gặp ở những người mắc bệnh phổi kẽ do xơ cứng hệ thống. Mệt mỏi và suy nhược cũng có thể xảy ra. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người mắc bệnh phổi kẽ do xơ cứng hệ thống đều có triệu chứng, đặc biệt nếu tình trạng bệnh nhẹ.
Khi bệnh nặng, bệnh nhân có thể bị suy hô hấp và tử vong.
Triệu chứng tăng huyết áp phổi
Xơ cứng hệ thống cũng có thể gây ra huyết áp cao trong các mạch máu của phổi (tăng huyết áp phổi). Điều này thường xảy ra cùng với bệnh phổi kẽ. Tuy nhiên, một số người bị xơ cứng hệ thống có thể mắc một tình trạng này và không mắc tình trạng kia.
Những người mắc cả bệnh phổi kẽ và tăng huyết áp phổi có xu hướng phát triển các triệu chứng bệnh nặng hơn và không sống lâu bằng những người chỉ mắc một tình trạng.
Tăng huyết áp phổi không phải lúc nào cũng gây ra triệu chứng ngay từ đầu. Tuy nhiên, theo thời gian, các triệu chứng như khó thở có thể phát triển và trở nên tồi tệ hơn.
Tăng huyết áp phổi làm tăng công việc mà tim bạn phải làm để bơm máu qua các mạch máu của phổi. Do đó, một người có thể gặp các triệu chứng như đau ngực và phù các chi, chủ yếu chi dưới. Nếu nghiêm trọng, điều này cuối cùng có thể dẫn đến các triệu chứng đe dọa tính mạng.
Nguyên nhân
Xơ cứng hệ thống là một bệnh tự miễn. Yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng vai trò trong việc kích hoạt bệnh, nhưng vẫn chưa biết nhiều về căn bệnh này.
Mặc dù các nhà nghiên cứu không chắc chắn chính xác nguyên nhân gây ra bệnh xơ cứng hệ thống, một số bộ phận của hệ thống miễn dịch dường như bị hoạt động quá mức ở những người mắc bệnh này. Cơ thể bắt đầu phản ứng với các bộ phận của chính nó như thể chúng là những kẻ xâm lược lạ, gây ra tình trạng viêm và các vấn đề khác của hệ thống miễn dịch.
Trong bệnh xơ cứng hệ thống, một phần của vấn đề là sự hình thành quá mức của mô sẹo (xơ hóa). Mặc dù đây có thể là một phần bình thường của phản ứng miễn dịch trong một số trường hợp, nhưng ở những người mắc bệnh xơ cứng hệ thống, tình trạng xơ hóa trở nên mất kiểm soát. Mô sẹo dư thừa có thể dẫn đến các vấn đề trên toàn cơ thể. Ví dụ, nó có thể gây ra tình trạng da cứng và dày.
Xơ cứng hệ thống cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng. Khi xơ hóa ảnh hưởng đến đường tiêu hóa, nó có thể gây ra các vấn đề như trào ngược. Xơ hóa các cơ quan nội tạng khác, chẳng hạn như thận, cũng có thể gây ra các biến chứng về sức khỏe.
Ở nhiều người bị xơ cứng hệ thống, phổi cũng bị ảnh hưởng. Mô sẹo dư thừa trong phổi dẫn đến bệnh phổi kẽ, khiến mô phổi bị co thắt nhiều hơn bình thường. Mô sẹo dư thừa cũng có thể làm hỏng các mạch máu trong phổi và dẫn đến tăng huyết áp phổi.
Các yếu tố nguy cơ
Không phải tất cả mọi người mắc bệnh xơ cứng hệ thống đều mắc bệnh phổi kẽ. Tuy nhiên, một số yếu tố nhất định có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Các yếu tố có thể làm tăng khả năng mắc bệnh phổi kẽ của một người bao gồm:
- Có dạng xơ cứng hệ thống lan tỏa trên da.
- Là người gốc Phi.
- Các triệu chứng xơ cứng hệ thống bắt đầu khi độ tuổi đã cao.
Kháng thể
Những người có kháng thể kháng Scl-70/anti-topoisomerase I và khi không có kháng thể kháng centromere có nhiều khả năng mắc bệnh phổi kẽ hơn.
Chẩn đoán
Những người mắc bệnh phổi kẽ do xơ cứng hệ thống thường được chẩn đoán sau khi được chẩn đoán ban đầu mắc bệnh xơ cứng hệ thống. Mọi người mắc bệnh xơ cứng hệ thống nên được sàng lọc khả năng mắc bệnh phổi.
Việc sàng lọc sẽ bao gồm tiền sử bệnh án và khám sức khỏe cẩn thận. Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán phải được đánh giá lâm sàng toàn diện, bao gồm đánh giá các triệu chứng về hô hấp, huyết áp, chụp ngực bằng chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao và xét nghiệm chức năng phổi để đảm bảo xác định sớm bệnh phổi kẽ và cung cấp các phép đo ban đầu để so sánh với các đánh giá trong tương lai. Đánh giá cũng sẽ bao gồm một bộ đầy đủ các xét nghiệm chức năng phổi, cho thấy bạn thở tốt như thế nào và phổi của bạn hoạt động tổng thể ra sao.
Theo dõi bệnh phổi kẽ ở bệnh xơ cứng hệ thống
Ngay cả khi bạn không mắc bệnh phổi kẽ khi được chẩn đoán ban đầu là bệnh xơ cứng hệ thống, bác sĩ vẫn sẽ muốn theo dõi bạn.
Việc sàng lọc đặc biệt quan trọng trong vài năm đầu sau khi các triệu chứng của bạn xuất hiện vì đó là thời điểm bệnh phổi kẽ có nhiều khả năng phát triển nhất. Trong thời gian này, bạn có thể cần phải thực hiện một số xét nghiệm sàng lọc, như xét nghiệm chức năng phổi, cứ sau 4-6 tháng.
Bằng cách sàng lọc thường xuyên, bác sĩ của bạn có nhiều khả năng phát hiện sớm các vấn đề về phổi. Chẩn đoán sớm rất quan trọng vì các vấn đề về phổi được điều trị càng sớm thì khả năng bảo tồn chức năng phổi càng cao trong thời gian dài hơn.
Tiên lượng
Tiên lượng cho những người mắc bệnh phổi kẽ do xơ cứng hệ thống thường không tốt. Những người mắc bệnh phổi kẽ cùng với xơ cứng hệ thống có khả năng tử vong do biến chứng bệnh cao hơn nhiều so với những người không mắc bệnh phổi.
Khoảng 80% đến 90% vẫn sống sót sau năm năm kể từ khi được chẩn đoán mắc bệnh phổi kẽ do xơ cứng hệ thống. Tỷ lệ này thấp hơn ở những người mắc cả bệnh phổi kẽ và tăng huyết áp phổi.
Tuy nhiên, một số người mắc bệnh phổi ổn định và sống lâu hơn nhiều. Những người được điều trị sớm bệnh phổi cũng có thể khỏe hơn những người được điều trị muộn hoặc không được điều trị.
Chữa xơ cứng bì bằng Nam y và cấy chỉ tại Thọ Xuân Đường
Bệnh xơ cứng bì là một trong những bệnh thuộc nhóm bệnh tự miễn, có tên khoa học là Scleroderma, đặc trưng bởi sự tăng sinh và lắng đọng các chất tạo keo ở da, thành mạch máu và nhiều cơ quan khác trong cơ thể như: ống tim mạch, tiêu hóa, tiết niệu, hô hấp.
Hậu quả của hiện tượng lắng đọng các chất tạo keo ở da, thành mạch máu và các cơ quan khác trong cơ thể sẽ gây ra dày cứng da, tổn thương và suy giảm chức năng của các nội tạng. Bệnh thường khởi phát ở tuổi từ 30 – 50 tuổi, nữ gặp nhiều hơn nam.
Theo y học cổ truyền bệnh xơ cứng bì thuộc phạm vi chứng “Ma mộc”. Vật chất di truyền, hệ miễn dịch, hormone nội tiết ứng với “tiên thiên” (tinh, khí bẩm thụ từ cha mẹ) của y học cổ truyền. Bệnh xơ cứng bì là do tiên thiên bất túc, bẩm tố can thận hư, lâu ngày dẫn đến chính khí hư suy ngoại tà (phong, hàn, thấp) xâm nhập, làm khí huyết, kinh lạc bế trở sinh bệnh.
Nam y với sự kết hợp tinh hoa của y học cổ truyền và những tiến bộ của y học hiện đại đã nghiên cứu về bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh trên quy luật sinh học và y học môi trường đã có những thành tựu to lớn trong điều trị các bệnh khó trong đó có xơ cứng bì.
Theo Nam y bệnh xơ cứng bì chủ yếu sinh ra do môi trường ô nhiễm và chế độ ăn uống sai nên đã làm rối loạn miễn dịch và hệ thống của cơ thể.
Những bệnh nhân xơ cứng bì đến với Nam y đều được thăm khám tỉ mỉ bằng “thất chẩn” của Nam y bao gồm:
– Chẩn đoán của Y học hiện đại: Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định trên lâm sàng và cận lâm sàng.
– Tứ chẩn: Vọng, văn, vấn, thiết của Y học cổ truyền.
– Chẩn đoán kinh lạc bằng cách đo nhiệt độ các tỉnh huyệt ở đầu ngón tay, ngón chân bằng máy móc hiện đại.
– Chẩn đoán mức độ tổn thương nông sâu của toàn bộ cơ thể.
Những nguyên tắc điều trị xơ cứng bì theo Nam y bao gồm:
– Giải độc tế bào, điều hòa nội môi, cân bằng các quá trình đồng hóa, dị hóa của cơ thể.
– Dùng thuốc Nam y có tác dụng bổ can thận, khí huyết để điều trị bản (gốc bệnh) nâng cao thể trạng.
– Dùng các vị thuốc trừ hoạt huyết, trừ phong, hàn, thấp thư cân chống co cứng để phục hồi thương tổn, điều trị các triệu chứng khó chịu cho bệnh nhân.
– Các loại thuốc bôi được chế từ các loại Nam dược giúp phục hồi vùng da bị xơ cứng.
– Mai hoa châm là phương pháp dùng kim mai hoa (5-7 chiếc kim nhỏ cắm vào đầu cán gỗ) gõ trên mặt da. Nam Y sử dụng mai hoa châm để điều trị bệnh xơ cứng bì, gõ lên mặt da bị tổn thương 1 – 2 lần/ tuần có tác dụng rất tốt.
– Chế độ ăn sống một số loại rau củ (rau húng, dưa leo, cà chua, ớt chuông…) để phòng chống các bệnh chuyển hóa, ung thư, miễn dịch. Ăn thực phẩm giàu Nitrit oxyd (NO) là cần thiết bởi đặc tính sinh học của NO giúp lưu thông mạch máu, rất tốt cho bệnh nhân xơ cứng bì có hội chứng Raynaud. Để có bữa ăn giàu NO cần chuẩn bị các loại đậu đỗ, hạt óc chó, hạt hạnh nhân, hạt điều… ngâm với nước 2 – 4h bỏ vỏ và thực hiện nguyên tắc “ăn sống, nhai kỹ, nuốt chậm”.
– Tư vấn cho bệnh nhân chế độ sinh hoạt hợp lý, giữ ấm cơ thể, giữ ấm bàn tay, luôn lạc quan, tránh căng thẳng, stress, xúc động quá mạnh.
Bệnh xơ cứng bì hiện nay y học hiện đại vẫn chưa tìm được nguyên nhân chính xác vì vậy nên việc điều trị đặc hiệu còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu lệ thuộc nhóm thuốc Corticoid để kháng viêm, chống dị ứng, ức chế miễn dịch và giảm đau giảm co cứng. Nhưng nếu dùng kéo dài sẽ gây rối loạn chuyển hóa làm loãng xương, tăng huyết áp, gây huyết khối làm nghẽn mạch, có thể gây loét dạ dày, làm giảm sự đề kháng của cơ thể dễ dẫn đến nhiễm trùng (dễ bị lao và các bệnh nấm). Đặc biệt, nếu dùng Corticoid trong thời gian dài sẽ có nguy cơ teo tuyến thượng thận. Bởi lẽ, tuyến này quen với tình trạng có thuốc trong cơ thể sẽ ngưng hoạt động, không còn duy trì chức năng nội tiết và như thế là rất nguy hiểm.
Sau nhiều năm nghiên cứu và điều trị thực tế bằng quy luật sinh học và y học môi trường, Nam y đã điều trị thành công nhiều trường hợp bệnh nhân mắc xơ cứng bì, phương pháp đơn giản ít tốn kém và ít tác dụng phụ, góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Đối với những bệnh khó, Nam y sẽ tiếp tục không ngừng nghiên cứu tìm tòi để tìm ra những phương pháp tốt nhất, chi phí thấp nhất để chữa bệnh cứu người.
Bác sĩ Đỗ Nguyệt Thanh – Tình Vũ