Ung thư trực tràng là một trong những bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam và các nước trên thế giới, có xu hướng ngày càng tăng. Điều trị ung thư trực tràng là điều trị đa mô thức, trong đó phẫu thuật đóng vai trò chính. Tuy nhiên tại Việt Nam, có nhiều bệnh nhân đến khám và điều trị khi bệnh ở giai đoạn tiến triển, chưa đủ điều kiện phẫu thuật vì vậy cần hoá xạ trị trước phẫu thuật.
Xạ trị trước mổ
Xạ trị trước mổ có tác dụng làm giảm kích thước khối u, góp phần giúp cho phẫu thuật dễ dàng hơn, đồng thời nâng cao khả năng mổ bảo tồn cơ tròn cho ung thư trực tràng thấp, giảm 50% nguy cơ tái phát tại chỗ, tăng thời gian sống thêm của người bệnh, giảm được tỷ lệ viêm ruột so với xạ trị sau mổ, do ruột non chưa bị dính vào diện mổ ở chậu hông.
Hai phác đồ xạ ngoài trước mổ chính trong các thử nghiệm lâm sàng gồm: Xạ trị ngắn ngày và dài ngày. Xạ trị ngắn ngày (phác đồ 5 x 5 Gy), sau đó là phẫu thuật triệt căn trong vòng một tuần. Ngược lại với xạ trị ngắn ngày, phác đồ dài ngày với phân liều nhỏ (1,8-2 Gy/ngày) trong thời gian từ 25 – 28 ngày. Sau khi kết thúc xạ trị, phẫu thuật thường được tiến hành sau xạ trị từ 4 – 8 tuần.
Phối hợp hoá chất và xạ trị trước mổ
Hoá chất sử dụng đồng thời với hoá xạ (hay còn gọi là “hoá xạ đồng thời”) với mục tiêu làm tăng thêm hiệu quả của xạ trị. Hai thuốc hay sử dụng là 5-FU và capecitabin đã được chứng minh hiệu quả và được đưa vào phác đồ tiêu chuẩn trong hoá xạ đồng thời trước mổ ung thư trực tràng.
5-FU đã được nghiên cứu thử nghiệm trên các bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển giai đoạn II-III. Các bệnh nhân được phân nhóm xạ trị có hoặc không kết hợp với truyền 5-FU/leucovorin. Phẫu thuật được tiến hành sau 3 đến 10 tuần.
Capecitabin là một dẫn xuất fluoropyrimidin đường uống, đã được chứng minh có hiệu quả tương đương truyền 5-FU trong hoá xạ đồng thời.
Những phương pháp điều trị mới
Điều trị bổ trợ trước mổ với hoá xạ đồng thời đã trở thành điều trị tiêu chuẩn cho các trường hợp ung thư trực tràng tiến triển, tuy nhiên, tỷ lệ tái phát và di căn xa vẫn lên đến 10% và 40%. Điều này thúc đẩy những thử nghiệm các phác đồ mới nhằm cải thiện kết quả điều trị đối với người bệnh ung thư trực tràng tiến triển. Điều trị hoá chất dẫn đầu, theo sau là hoá xạ đồng thời hoặc xạ trị và hoá chất củng cố trước phẫu thuật (hay còn gọi chung là điều trị bổ trợ trước toàn bộ) là một cách tiếp cận thay thế với tiềm năng điều trị các tổn thương vi di căn sớm, đưa hoá chất đến tổn thương nguyên phát khi khối u còn hệ thống mạch máu nguyên vẹn, và đồng thời tăng khả năng tuân thủ điều trị của người bệnh với phác đồ.
Liệu pháp miễn dịch là một mảng quan trọng trong điều trị ung thư, đồng thời đang là một mảnh đất phát triển mạnh mẽ của các nghiên cứu ung thư đương đại, tiến hành trên nhóm nhỏ bệnh nhân, thời gian nghiên cứu chưa quá lâu, nhưng kết quả nghiên cứu cũng hứa hẹn nhiều tiềm năng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của điều trị miễn dịch.
Một số nghiên cứu thử nghiệm phối hợp giữa liệu pháp miễn dịch kháng PD-1/PD-L1 và hoá xạ đồng thời bổ trợ trước ở bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển đã được thực hiện. Nhìn chung kết quả thu lại khá ngoạn mục với tỷ lệ đáp ứng cao. Tuy nhiên, do giá thành cao, nhiều thuốc mới chưa có trên thị trường và cần nhiều thử nghiệm pha III để đánh giá hiệu quả, hiện nay các khuyến cáo và thực tiễn lâm sàng chưa đưa liệu pháp miễn dịch vào điều trị thường quy trong điều trị đầu tay ung thư trực tràng tiến triển.
ThS.BS Nguyễn Văn Hùng, Khoa Ung bướu & CSGN
Bệnh viện ĐH Y Hà Nội