TS.BS Trần Chí Cường
Giám đốc chuyên môn, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần ThơXem thông tin
1. Mối liên hệ giữa bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và đột quỵ
Thưa TS.BS Trần Chí Cường, bệnh tiểu đường và cao huyết áp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Người bị tiểu đường dễ bị cao huyết áp và người bị cao huyết áp cũng có thể bị bệnh tiểu đường. Và đây lại là 2 yếu tố nguy cơ hàng đầu của căn bệnh nguy hiểm khác, đó là đột quỵ. Xin BS nói rõ hơn về mối liên quan giữa 3 bệnh này như thế nào? Vì sao lại có sự ràng buộc lẫn nhau?
TS.BS Trần Chí Cường trả lời:
3 căn bệnh này liên quan mật thiết với nhau. Trong đó, đột quỵ thường là hậu quả cuối cùng có khả năng dẫn đến tử vong của tăng huyết áp và tiểu đường.
Trên một người có tiền căn đơn lẻ bệnh tiểu đường thì sau một thời gian có thể kèm theo tăng huyết áp. Khi đã cộng hưởng cả tiểu đường và tăng huyết áp thì nguy cơ đột quỵ rất cao.
Bệnh tiểu đường liên quan nhiều đến vấn đề chuyển hóa trong cơ thể. Khi chúng ta đưa thực phẩm vào cơ thể sẽ phân hủy rồi trở thành chất dinh dưỡng, nhưng nếu lượng thức ăn đưa vào nhiều mà lượng tiêu hao vận động ít sẽ để lại năng lượng dư thừa. Khi thừa càng nhiều, tích lũy càng lớn thì càng thừa cân, béo phì, tăng mỡ máu, đường huyết tăng cao do cơ thể không phân hủy được lượng đường dư thừa và nó sẽ lắng đọng vào tất cả các cơ quan.
Nguy hiểm nhất là lắng đọng trên thành mạch máu, tạo thành mảng xơ vữa sẽ dễ hình thành cục máu đông gây tắc mạch tại chỗ khiến mạch máu tại vị trí đó bị vỡ hoặc nếu cục máu đông bong tróc, trôi lên não gây tắc mạch máu não, trôi vào mạch máu tim hay động mạch vành (hoặc cục máu đông hình thành ngay tại động mạch vành) sẽ gây tắc động mạch vành dẫn đến nhồi máu cơ tim cấp.
Đối với bệnh tăng tăng huyết áp, một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu của bệnh này là người lớn tuổi. Trong cộng đồng, những người từ 50 tuổi trở lên nguy cơ bị tăng huyết áp đã nhân đôi. Trong dân số từ 70 tuổi trở lên, khi đo huyết áp cho 100 người cũng có đến 60-70% bị tăng huyết áp mà không hề hay biết. Đến một ngày nào đó khi huyết áp tăng đột biến 180 – 200mmHg thì hậu quả xảy ra là tình trạng đột quỵ xuất huyết não.
Như vậy, chỉ với riêng một bệnh lý tiểu đường đã làm gia tăng nguy cơ đột quỵ. Những người mắc bệnh tiểu đường, nguy cơ đột quỵ tăng gấp 3 so với người khỏe mạnh. Nếu bệnh tiểu đường còn kèm theo tình trạng tăng huyết áp thì nguy cơ còn tăng gấp bội.
2. Nhận biết dấu hiệu và cách sơ cứu đột quỵ ở người bệnh tiểu đường, tăng huyết áp
Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị đột quỵ ở những người tiểu đường, tăng huyết áp? Một số người bệnh thường không phân biệt rõ đâu là triệu chứng cảnh báo đột quỵ hay do bệnh tiểu đường, tăng huyết áp nên có tâm lý chủ quan, đợi vượt sức chịu đựng mới đến bệnh viện, điều này làm lỡ thời gian vàng. Dấu hiệu nhận biết đột quỵ như thế nào, trong đó triệu chứng nào là đặc trưng nhất? Khi có người đột quỵ, nên sơ cứu như thế nào?
TS.BS Trần Chí Cường trả lời:
Biểu hiện đột quỵ rất đơn giản, người dân có thể nhận biết được. Các dấu hiệu này được tóm tắt bằng chữ F.A.S.T gồm:
Face: Đầu tiên là biến đổi ở mặt, bệnh nhân có thể liệt mặt, méo miệng, khuôn mặt xệ xuống một bên, đặc biệt là mặt dưới, biểu hiện rõ khi bệnh nhân cười, nhe răng.
Arms: Yếu liệt tay chân. Đánh giá bệnh nhân có bị yếu hoặc liệt một bên hay không bằng cách yêu cầu bệnh nhân đưa hai tay lên cao. Thường, bệnh nhân sẽ không nâng tay lên được, nếu nâng được cũng rất khó. Kỹ hơn, nếu bệnh nhân còn tỉnh hãy nói họ bóp – nắm lấy tay mình, khi đó chúng ta sẽ cảm nhận được một bên tay bị yếu, không có sức.
Speech: Kiểm tra giọng nói. Một người khi bị đột quỵ sẽ có sự thay đổi về giọng nói, nói đớ, nói ngọng, không nói được hoặc phát âm sai. Ví dụ như không nói rõ được tên họ của chính mình mà chỉ nói một cách ú ớ, khó nghe.
Chỉ với 3 dấu hiệu chúng ta có thể chẩn đoán gần như chính xác một trường hợp đang bị đột quỵ. Lưu ý, khi thấy bệnh nhân méo miệng, tay chân yếu, nói đớ – nói khó thì đó là đột quỵ chứ không phải trúng gió hay lẫn lộn với bất kỳ bệnh lý nào khác. Việc quan trọng nhất là nhanh chóng đưa người bệnh tiếp cận với cơ quan y tế có thể cấp cứu, điều trị đột quỵ một cách tốt nhất, chứ không phải đến cơ sở y tế gần nhà mà không có điều kiện cứu chữa bệnh nhân đột quỵ, điều này vô hình chung làm mất đi khoảng thời gian vàng.
Mặc dù đột quỵ có liên quan đến yếu tố nguy cơ nhiều hơn như có bệnh nền tăng huyết áp, tiểu đường, mỡ máu cao, hút thuốc lá nhiều năm số lượng hơn 1 gói 1 ngày nhưng thực tế vẫn có những trường hợp bị đột quỵ mà không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào. Căn bệnh này không loại trừ bất kỳ ai, có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào, vì thế chúng ta không nên chủ quan.
Liệt một bên mặt, méo miệng, đau đầu dữ dội, nói khó là những dấu hiệu quan trọng nhận biết đột quỵ
Trong thời gian chờ xe cấp cứu, người nhà bệnh nhân có thể sơ cứu tại nhà theo trình tự A-B-C.
A (Airway, đường thở): Quan trọng nhất là đường thở của bệnh nhân, nếu người đó còn tỉnh táo, tiếp xúc được thì không quá lo lắng về đường thở. Chúng ta cần kiểm tra xem người lớn tuổi có răng giả không, có ảnh hưởng đường thở hay không, có tím tái môi, có co kéo hay không để khai thông đường thở.
Nới lỏng quần áo, đưa bệnh nhân đến nơi thông thoáng, tránh trong phòng kín thiếu oxy hoặc tập trung đông người. Lưu ý, không cho bệnh nhân uống thuốc, uống chanh đường hay sữa… vì có thể làm bệnh nhân hít sặc vào phổi dẫn đến tử vong.
Tóm lại, nếu bệnh nhân không cần hỗ trợ về đường thở chúng ta chỉ cần để yên, đừng gây hại thêm cho bệnh nhân bằng thao tác sai lầm như bơm, xịt rửa, đút đồ ăn, uống thuốc trong lúc nghi ngờ bị đột quỵ.
B (Blood, máu): Nhanh chóng kiểm tra xem bệnh nhân có bị chấn thương, va chạm hay chảy máu ở vị trí nào không. Trường hợp đột quỵ nhẹ nhưng té ngã ngoài đường làm gãy xương đùi, chấn thương cột sống cổ hoặc nếu chảy máu không được băng ép, cầm máu mà chỉ xoa dầu, cạo gió, sốc bệnh nhân lên thì rất nguy hiểm.
Nếu bệnh nhân còn tỉnh, hãy hỏi xem họ có đau vị trí nào không, chẳng hạn như vùng cột sống cổ, xương đùi… Nếu bệnh nhân bất tỉnh, chúng ta phải quan sát xung quanh bệnh nhân xem có vết máu nào không, đồng thời xử lý theo nguyên tắc một tấm gỗ. Đặt bệnh nhân lên một tấm ván cứng (lý tưởng nhất là dùng băng ca) và nhờ vài người khiêng bệnh nhân theo nguyên tắc cùng lúc đỡ nhẹ nhàng các bộ phận quan trọng của người bệnh, giữ thẳng vùng cổ, ngực, đùi, chân rồi đặt vào tấm ván cứng (hoặc băng ca), sau đó vận chuyển bệnh nhân đến nơi an toàn.
C (Circulation, tuần hoàn máu): Đánh giá tuần hoàn của bệnh nhân bằng cách rờ các mạch máu lớn của bệnh nhân ở các vị trí như cổ, đùi… xem còn đập hay không. Nếu còn, di chuyển bệnh nhân đến nơi bằng phẳng nghỉ ngơi, chờ cấp cứu đến. Nếu ngưng thở, cần làm hồi sức tim phổi.
Hiện nay, tại một số quốc gia phát triển như Mỹ, Singapore hay thậm chí là Thái Lan, ở những nơi dân cư đông người, khu mua sắm hoặc sân bay đã được trang bị máy sốc tim tại hiện trường. Khi đặt máy này trên cơ thể người bệnh nó sẽ tự dò, nếu bệnh nhân ngưng tim máy sẽ phóng nguồn xung điện kích thích tim đập lại, tương tự như việc sốc điện trong phòng cấp cứu.
Nhưng ở Việt Nam thì hiện tại chưa triển khai. Trong tương lai, Bệnh viện Đột quỵ Tim mạch Cần Thơ sẽ trang bị những máy này để huấn luyện cho cộng đồng.
3. Chỉ số huyết áp, đường huyết lý tưởng khi điều trị tăng huyết áp, tiểu đường
Kiểm soát huyết áp, đường huyết tốt là một trong những tiêu chí quan trọng để phòng ngừa các biến chứng, nhất là đột quỵ. Thế nào là kiểm soát đường huyết, huyết áp ổn định? Nhiều người quan niệm “vượt chỉ số một chút” chắc không sao. Vậy “một chút” này là du di trong khoảng bao nhiêu và khi vượt mức nào dễ có nguy cơ đột quỵ? Làm thế nào để kiểm soát tốt các chỉ số của 2 căn bệnh này?
TS.BS Trần Chí Cường trả lời:
Để kiểm soát huyết áp, trước hết chúng ta cần phải biết như thế nào là chỉ số huyết áp bình thường. Ở người trưởng thành, lý tưởng nhất là huyết áp tâm thu khoảng 110-120mmHg, huyết áp tâm trương 80mmHg. Những người có mức huyết áp tâm thu lớn hơn 140mmHg hoặc huyết áp tâm trương lớn hơn 90mmHg được gọi là tăng huyết áp. Đây là mức huyết áp phải điều trị. Mức báo động đỏ có khả năng dẫn đến đột quỵ rất cao là huyết áp tâm thu từ 180mmHg trở lên hoặc huyết áp tâm trương trên 100mmHg.
Vậy mức huyết áp nào khi điều trị có thể “du di” được? Đối với những người lớn tuổi có nhiều bệnh nền, có mảng xơ vữa mạch máu, đôi khi việc hạ huyết áp tích cực sẽ khiến người bệnh khó chịu, vì thế ở nhóm người này, mức huyết áp duy trì có thể ở mức dưới hoặc cán biên 140mmHg. Còn từ 150 – 160mmHg thì phải điều trị tích cực hơn nữa. Hiện nay có nhiều loại thuốc huyết áp khác nhau, nếu uống một loại không hiệu quả có thể tăng lên 2, thậm chí phối hợp 3 thuốc với nhau để đạt mức huyết áp mục tiêu.
Trong điều trị tăng huyết áp, vấn đề nhận thức của người bệnh rất quan trọng. Bởi có rất nhiều người bệnh chủ quan không uống thuốc khi mức huyết áp tăng cao. Thậm chí, nhiều bệnh nhân huyết áp đã lên đến 170 – 180 mmHg nhưng vẫn dửng dưng không điều trị vì cảm giác bình thường, không có triệu chứng gì xảy ra.
Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng mặc dù lúc đó không có triệu chứng gì nhưng chỉ cần có một xúc cảm hoặc căng thẳng nào đó thì rất dễ dẫn đến đột quỵ. Khi cơn tăng huyết áp từ 180 – 200 mmHg những mạch máu nhỏ li ti trên não sẽ vỡ ra và bệnh nhân có thể dẫn đến xuất huyết não rất nguy hiểm. Do đó, chúng ta đừng chủ quan, phải điều trị để làm sao đưa mức huyết áp về gần 120mmHg càng tốt, trong một số trường hợp có thể “du di” thì ở trong mức 130-140mmHg nhưng điều này cần phải được đánh giá bởi bác sĩ chuyên khoa.
Mức báo động đỏ huyết áp 180, 200 mmHg có thể dẫn đến đột quỵ
Về đường huyết, mức lý tưởng là từ 100-120 mg/dL. Những ai có mức đường huyết từ 130 mg/dL trở lên thì bắt đầu có tình trạng rối loạn dung nạp glucose và từ 140 mg/dL được gọi là tiểu đường, nếu như thử đường huyết lúc đói trong 3 lần liên tiếp đều trên 140 mg/dL sẽ bắt đầu điều trị.
Mức báo động nguy hiểm là từ 200 mg/dL, lúc này người bệnh sẽ đối diện với nhiều nguy cơ, nặng nhất là hôn mê do tăng đường huyết. Chúng tôi đã chứng kiến những trường hợp bệnh nhân chủ quan không điều trị hoặc điều trị không đúng cách mức đường huyết đã lên tới 700 mg/dL và bệnh nhân rơi vào hôn mê. Nếu hôn mê nặng có thể dẫn đến rối loạn chuyển hóa, xáo trộn toàn bộ cơ thể và tử vong. Ở người tiểu đường, ngoài đột quỵ thì hôn mê do tăng đường huyết là một trong những biến chứng nghiêm trọng dẫn đến tử vong.
Nguyên tắc chung trong điều trị tiểu đường là làm sao đưa mức đường huyết về càng gần 120mg/dL càng tốt. Mức chấp nhận được là dưới 140 mg/dL. Đó là tiêu chuẩn thứ nhất về đường huyết.
Tiêu chuẩn thứ 2 là chỉ số HbA1c. Đối với người bình thường, HbA1c trung bình khoảng 6,0. Nếu người bệnh tiểu đường điều trị mức đường huyết tại một thời điểm là 120 mg/dL nhưng HbA1c còn 8,0 là chưa đạt, chúng ta buộc phải duy trì nhiều tháng để HbA1c ổn định bền vững.
Thông thường chuyển biến đường huyết định kỳ trong mỗi ngày phải giữ liên tục trong 3 tháng thì chỉ số HbA1c mới cải thiện. Do đó, với người bệnh tiểu đường không chỉ kiểm tra đường huyết bấm bằng tay tại nhà mỗi ngày mà định kỳ mỗi 3 tháng phải xét nghiệm chỉ số HbA1c một lần để kiểm tra đường huyết có ổn định trong 3 tháng hay không. Việc điều trị tiểu đường chấp nhận được là mức đường huyết dưới 140 mg/dL và chỉ chỉ số HbA1c khoảng 6,5.
Nhưng đối với người tiểu đường còn biến chứng khác cũng nguy hiểm không kém đó là việc điều trị quá mức, uống thuốc quá liều hoặc phối hợp quá nhiều thuốc, không kiểm tra thường xuyên dẫn đến tình trạng hạ đường huyết xuống dưới mức 60 hoặc 50 mg/dL có thể dẫn đến hôn mê và tử vong. Vì thế, với người bệnh tiểu đường, cần phải kết hợp các liệu trình dùng thuốc và không dùng thuốc để giữ cho mức đường huyết ổn định, đồng thời học cách theo dõi, tự thử đường huyết tại nhà.
4. Thuốc điều trị huyết áp làm tăng đường huyết, liệu có dẫn đến đột quỵ?
Thưa BS, một số loại thuốc điều trị tăng huyết áp như thuốc lợi tiểu có tác dụng phụ là tăng mức glucose huyết trong cơ thể. Nhiều bạn đọc AloBacsi có cùng thắc mắc, việc dùng thuốc có tác dụng phụ như vậy liệu có làm tăng nguy cơ đột quỵ không? Nếu có thì cần lưu ý gì khi dùng thuốc để vừa đảm bảo hiệu quả điều trị bệnh lý sẵn có và phòng ngừa tác dụng phụ xảy ra bệnh nguy hiểm trong tương lai gần như đột quỵ?
TS.BS Trần Chí Cường trả lời:
Một số nhóm thuốc lợi tiểu về mặt lý thuyết nó có thể gia tăng nồng độ đường trong máu, nhưng tỷ lệ nhỏ thôi, bệnh nhân không nên quá lo lắng. Bởi trong nhiều trường hợp, bệnh nhân bắt buộc phải dùng thuốc lợi tiểu nếu kèm theo các vấn đề khác như suy tim hoặc trong một số liệu trình điều trị phối hợp thuốc.
Bản thân tôi cũng đã phối hợp thuốc lợi tiểu trong nhiều trường hợp, nó không làm ảnh hưởng liệu trình điều trị, đôi khi nếu cần thiết có thể điều chỉnh liều thuốc là có thể giải quyết được vấn đề. Do đó, đừng vì lo lắng thuốc làm tăng đường huyết mà không sử dụng dẫn đến việc kiểm soát huyết áp không hiệu quả, việc điều trị suy tim không đạt được mục tiêu, điều này còn nguy hiểm hơn nữa. Chúng ta phải hiểu rõ mức đường của mình trong khi đang sử dụng thuốc. Nếu mức đường huyết có khuynh hướng cao, chúng ta có thể bù đắp lại bằng việc tăng liều kiểm soát đường cũng như giảm chế độ ăn.
5. Phòng ngừa đột quỵ ở người bệnh tiểu đường, tăng huyết áp thế nào?
Phòng ngừa đột quỵ ở những người có bệnh mạn tính như tăng huyết áp, tiểu đường như thế nào? Với người bị kết hợp cả 2 căn bệnh này thì cách phòng ngừa có gì đặc biệt không thưa TS.BS Trần Chí Cường?
TS.BS Trần Chí Cường trả lời:
Bệnh tiểu đường type 2 thường liên quan đến những hoạt động sau khi chúng ta trưởng thành là chính. Những vấn đề căng thẳng kéo dài, ăn uống quá nhiều mà vận động ít, dùng nhiều đồ ăn nhanh… khiến mức đường huyết luôn bị dao động và biến động. Nếu việc này kéo dài trong nhiều năm thì rất dễ hình thành bệnh tiểu đường.
Do đó, việc phòng tránh tiểu đường không phải đợi tới lúc đã mắc bệnh rồi mới tìm giải pháp mà nên bắt đầu từ khi còn trẻ, phải có ý thức vận động, tập thể dục, giữ cân nặng cơ thể đừng để thừa cân, béo phì, tránh căng thẳng, hạn chế thức ăn nhanh…
Với những ai đã mắc bệnh tiểu đường thì đừng bi quan, nếu chúng ta thay đổi những lối sống như đã nói ở trên cùng với việc uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ, khám định kỳ thì hoàn toàn có thể kiểm soát đường huyết, thậm chí là chữa khỏi (nghĩa là bệnh nhân ngưng thuốc một thời gian dài, thử lại đường huyết bình thường, HbA1c trong giới hạn cho phép, được công nhận chữa khỏi tiểu đường).
Đối với bệnh tăng huyết áp, ngoài các yếu tố nguy cơ không thay đổi được như tuổi tác thì còn nhiều yếu tố nguy cơ hoàn toàn có thể thay đổi được như hút thuốc lá, rượu bia nhiều, béo phì, ít vận động, thói quen ăn mặn… Chúng ta cần tăng cường chế độ ăn nhiều rau xanh, giàu chất xơ, hạn chế thức ăn nhanh, dầu mỡ, đồ ăn mặn.
Một yếu tố nữa cũng ảnh hưởng đến huyết áp đó là đời sống tinh thần. Nếu những người lúc nào cũng áp lực, căng thẳng quá mức, dễ phản ứng, không suy nghĩ tích cực thì rất dễ mắc các bệnh chuyển hóa, tăng huyết áp. Vì thế, chúng ta cần giải tỏa căng thẳng, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, ngủ đủ giấc.
Để phòng ngừa và nhận diện đột quỵ, nếu không may mắc 2 căn bệnh này thì điều quan trọng nhất là chúng ta cảm nhận cơ thể mình xem có dấu hiệu diễn biến tình trạng nặng của bệnh hay không. Ví dụ, trong thời gian qua kiểm tra đường huyết thấy trên 200 mg/dL, huyết áp cũng dao động lúc 170, 160, lúc 100 mmHg, hoặc trong cơ thể có dấu hiệu điển hình của cơn thiếu máu não thoáng qua thì hãy nhanh chóng đi tầm soát đột quỵ.
Hoặc nếu chúng ta có cơn đau ngực điển hình, lúc trước đi bộ 1.000m vẫn khỏe nhưng giờ vừa ra khỏi nhà 200m đã thấy mệt, khó thở, đau ngực hoặc tim đập nhanh, đập chậm quá mức ở trạng thái bình thường, hoặc ngất thì đó đều là những dấu hiệu cảnh báo cần nhanh chóng đi tầm soát đột quỵ.
Hoặc nếu những ai có tăng huyết áp, tiểu đường 10 năm trở lên thì ít nhất nên đi kiểm tra tầm soát đột quỵ 1 lần, vì với công nghệ không xâm lấn hiện nay chúng ta hoàn toàn có thể nhận biết sớm đột quỵ, phòng ngừa từ xa, không để xảy ra rồi mới chữa thì chắc chắn hiệu quả không cao. (Nguồn alobacsi.com)