Phát huy tư tưởng đại đoàn kết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, hạnh phúc như ngày nay.
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, hạnh phúc như ngày nay.
Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam. Tư tưởng này được thể hiện trong cả tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, đoàn kết ở trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối chiến lược, nguồn sức mạnh và là động lực to lớn trong quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.
Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận, đánh giá cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đại đoàn kết đối với thắng lợi của cách mạng nước nhà. Di sản mà Người để lại có khoảng 50% số tác phẩm, bài nói, bài viết đề cập đến vấn đề đoàn kết, cụm từ “đoàn kết” và “đại đoàn kết” được sử dụng khoảng 2000 lần, trong đó riêng Bản Di Chúc của Bác năm 1969 cụm từ “đoàn kết” xuất hiện 8 lần.
Bản Di Chúc là sự kết tinh tư tưởng cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cương lĩnh cách mạng soi đường cho Nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn gian khổ tiến lên giành độc lập tự do, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết là tư tưởng cốt lõi trong Di Chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
Trước hết về đoàn kết trong Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đến việc thực hiện đoàn kết trong Đảng. Đoàn kết trong tổ chức lãnh đạo là cơ sở, hạt nhân cốt lõi của đoàn kết Nhân dân, dân tộc và quốc tế, là nguồn cội của mọi thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến rất nhiều vấn đề quan trọng cần phải làm, từ việc tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập đến các vấn đề hậu chiến tranh, từ đối nội đến đối ngoại, từ việc chung đến việc riêng… Tuy nhiên, vấn đề mà Người dành sự quan tâm hàng đầu là “nói về Đảng” và đoàn kết trong Đảng. Khi nói về đoàn kết trong Đảng, Người đã 5 lần nhắc đến cụm từ “đoàn kết”. Người chỉ rõ vai trò của đoàn kết đối với Đảng ta: “Trước hết nói về Đảng – Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”1.
Bút tích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tiếp tục gìn giữ truyền thống đoàn kết và tiếp tục phát huy vai trò của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt ra các yêu cầu và nhiệm vụ để củng cố khối đoàn kết trong Đảng trong điều kiện mới, sau khi chiến tranh kết thúc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với muôn vàn khó khăn đang ở phía trước. Trong điều kiện khó khăn phức tạp đó đòi hỏi “Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết”. Đảng mạnh khi khối đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thường xuyên được tăng cường và khi “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”2. Đồng thời, cần phải “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình…”, trong quá trình tự phê bình và phê bình không được lợi dụng để trù dập, bôi nhọ, hạ bệ lẫn nhau, mà “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Mỗi đảng viên phải là người có đạo đức cách mạng, là công bộc của dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” để Đảng ta xứng tầm là một Đảng cầm quyền “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”3.
Về đoàn kết dân tộc. Kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc, cùng với việc nhấn mạnh đoàn kết trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Người chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và Nhân dân ta”, vì vậy trách nhiệm của mỗi đảng viên, mỗi người dân cần phải gìn giữ, phát huy truyền thống đó như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Muốn làm được điều đó, với tư cách là một Đảng cầm quyền trong điều kiện mới, Đảng ta phải có những chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước, thực tế khách quan của thế giới và phải đáp ứng nhu cầu nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp Nhân dân. Đó là cách tốt nhất để tập hợp lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong bản Di chúc, Người đã đề ra các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp Nhân dân như: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”. Với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”; Với thương binh, thân nhân gia đình thương binh liệt sỹ, chính quyền địa phương “phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Với đoàn viên thanh niên, “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”; Với người nông dân cần có chính sách miễn thuế nông nghiệp một năm; Với phụ nữ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo” và cả những nạn nhân của chế độ cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”4
Thông qua những chính sách đó, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã quy tụ được sức mạnh toàn dân tộc, sức mạnh đó không chỉ từ những người ở “phía bên này” mà còn có cả những người ở “phía bên kia”, không bỏ sót bất kỳ ai miễn là những người Việt Nam yêu nước không có sự phân biệt đối xử. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng nhân ái, độ lượng, bao dung mang đậm phong cách Hồ Chí Minh và bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội.
Làm tốt được những việc nêu trên, Đảng ta sẽ hiện thực được điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “ Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”5
Về đoàn kết quốc tế. Trong quá trình tìm đường cứu nước, hoạt động và lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được xu thế mới của thời đại khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản nhất thiết phải cần đến sức mạnh đoàn kết quốc tế. Thực tiễn hoạt động và lãnh đạo của Hồ Chí Minh cho thấy, Người luôn quan tâm, vun đắp cho tình đoàn kết quốc tế để làm sao chúng ta tranh thủ tới mức cao nhất sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh chính là hình ảnh sáng người của tình đoàn kết quốc tế.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh xuất bản năm 1927, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có quan hệ mật thiết, bình đẳng và ảnh hưởng thúc đẩy lẫn nhau. Vấn đề đoàn kết quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 2/1930 và nhiều văn kiện của Đảng và các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tiễn lịch sử cho thấy Việt Nam có thể chiến thắng được những kẻ thù mạnh hơn ta nhiều lần là do dân tộc ta luôn biết đoàn kết thống nhất, đồng thời còn có sự ủng hộ, đoàn kết của các dân tộc trên thế giới. Chính vì vậy, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định những thắng lợi mà Nhân dân Việt Nam giành được không thể tách rời tình đoàn kết giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Trên cơ sở đó, Người đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các dân tộc anh em trên thế giới đã giúp đỡ Nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và một trong những dự định đầu tiên sau khi chiến tranh kết thúc của Người là: “Tôi sẽ thay mặt Nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta.”6. Đó chính là truyền thống tốt đẹp của Nhân dân Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tốt đẹp nhất của truyền thống đó.
Thông qua các tác phẩm, bài báo, bài nói chuyện, bằng những hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kêu gọi các dân tộc, các đảng cộng sản anh em trên thế giới đoàn kết cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định. Tuy nhiên, Người thật sự “đau lòng” khi chứng kiến cảnh mất đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: “là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!”. Vì lý do sức khỏe, không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ “sứ mệnh hòa bình” để kêu gọi tình đoàn kết các đảng anh em, Người đã căn dặn Đảng ta phải có trách nhiệm khôi phục tình đoàn kết quốc tế: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghia quốc tế vô sản, có lý có tình”. Đồng thời đặt niềm tin trọn vẹn vào tình đoàn kết quốc tế: “Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”7.
Người đã không quên gửi lời chào tới bạn bè quốc tế: “Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.” và hy vọng Đảng ta, nhân dân ta luôn đoàn kết, phấn đấu không chỉ vì một nước Việt Nam hòa bình giàu đẹp mà còn vì phong trào cách mạng thế giới: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”8.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, thực hiện Di chúc của Người, trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm, chăm lo đến công tác đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng của đất nước, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong toàn xã hội, định hướng tương lai của cả dân tộc. Đại hội đã khẳng định tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết dân tộc đã, đang và sẽ mãi là động lực quan trọng hàng đầu đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi cuối cùng, cần tiếp tục được xây dựng, củng cố. Nhờ tinh thần đoàn kết thống nhất, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, cho nên “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” và để “Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc cụ thể hoá, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII”9. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã rút ra bài học “Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”10.
Kế thừa quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định: đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là chủ trương lớn của Đảng cần tiếp tục được củng cố phát triển trong chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hoá, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”11.
Hơn nửa thế kỉ trôi qua, nhưng tư tưởng đại đoàn kết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng đại đoàn kết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ, là ngọn đuốc soi đường cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tư tưởng đoàn kết trong Di chúc của Người cho đến nay vẫn luôn tỏa sáng, soi đường cho dân tộc ta vững bước trên con đường phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.503, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.503, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.503-504, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
4. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tr. 29-30, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007
5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.518, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.515, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.517-518, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.518, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
9,10,11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Văn Chương