Lợi ích tiềm năng của liệu pháp ozone trong điều trị nguyên nhân gây bệnh đa xơ cứng
Liệu pháp ozone y tế hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi như một phương pháp điều trị thay thế với mức độ an toàn và hiệu quả cao đối với nhiều loại bệnh mãn tính. Bên cạnh đó, các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy liệu pháp này có nhiều lợi ích tiềm năng trong ngăn ngừa tác nhân gây nên nhiều căn bệnh nguy hiểm.
Liệu pháp ozone y tế hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi như một phương pháp điều trị thay thế với mức độ an toàn và hiệu quả cao đối với nhiều loại bệnh mãn tính. Bên cạnh đó, các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy liệu pháp này có nhiều lợi ích tiềm năng trong ngăn ngừa tác nhân gây nên nhiều căn bệnh nguy hiểm.
Trong các thông tin dưới đây, mời bạn đọc tìm hiểu những lợi ích tiềm năng của liệu pháp ozone trong điều trị nguyên nhân gây bệnh đa xơ cứng.
Bệnh đa xơ cứng là gì?
Một số cuộc điều tra liên quan đến bộ gen trước đây đã chứng minh mối quan hệ giữa phản ứng của hệ thống miễn dịch và sinh bệnh học MS (Hafler và cộng sự, 2007).
Các tế bào lympho tự phản ứng, đặc biệt là tế bào T và sự tương tác của chúng với hàng rào máu não (BBB), có vai trò then chốt trong sinh lý bệnh MS (S. Dolati và cộng sự, 2018).
Vị trí của đại thực bào, tế bào plasma, tế bào T và B ở rìa hoạt động của tổn thương đã được chứng minh ở tất cả các giai đoạn của MS (Prineas và Wright, 1978).
Ngoài ra, máu ngoại vi của bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng chứa số lượng tế bào T được kích hoạt phản ứng myelin ngày càng tăng có chức năng nổi bật trong sự phát triển MS bằng cách nhắm mục tiêu vào các kháng nguyên tự có nguồn gốc từ myelin (Pette et al., 1990).
Để đáp ứng với các mầm bệnh nội bào và mô, sự phá hủy do các rối loạn tự miễn dịch như bệnh đa cơ cứng, tế bào T được phân cực thành tế bào Th1 và Th17 (Severson và Hafler, 2009).
Các tế bào Th17 được phân biệt bằng cách tiết ra các cytokine gây viêm, đặc biệt là IL-17, vai trò của nó đã được chứng minh ở chuột EAE (Harrington và cộng sự, 2005).
IL-23 là một cytokine tương quan khác với sinh bệnh học MS, có vai trò trong quá trình biệt hóa và phát triển của tế bào Th17, cùng với RORɣt. RORɣt là yếu tố phiên mã cần thiết cho chức năng và biệt hóa tế bào Th17 (Annunziato và cộng sự, 2007; Ivanov và cộng sự, 2006).
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mật độ và phản ứng viêm của tế bào Th1 và Th17 tăng cao ở bệnh nhân MS, đặc biệt là ở loại tái phát-thuyên giảm (RR). Ngoài ra, sự biểu hiện quá mức của IL-17, IL-23, TGF-β, IL-6 và RORɣt đã được báo cáo ở các tổn thương, CSF và PBMC của bệnh nhân MS.
Do đó, do vai trò gây viêm của tế bào Th17 và các yếu tố liên quan của chúng, những tế bào này cũng có thể quan trọng trong quá trình viêm và sinh bệnh học của MS, cùng với phản ứng viêm của tế bào Th1 (Matusevicius và cộng sự, 1999; Tzartos và cộng sự, 2008).
miRNA, dưới dạng RNA không mã hóa chuỗi đơn, là những yếu tố khác liên quan đến sinh bệnh học MS. miRNA điều chỉnh sự biểu hiện gen ở cấp độ sau phiên mã cũng như các phản ứng miễn dịch và các quá trình sinh học khác nhau.
Dựa trên điều này, miRNA ngăn chặn sự biểu hiện của các gen mã hóa protein bằng cách ức chế tịnh tiến (S. Dolati và cộng sự, 2018). Các miRNA bị rối loạn chức năng có liên quan đến các bệnh tự miễn, ung thư và rối loạn thoái hóa thần kinh (Kanwar và cộng sự, 2010; Sonntag, 2010).
Sự hiện diện của miRNA bị rối loạn điều hòa đã được chỉ ra trong các rối loạn tự miễn dịch khác nhau như MS, viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến và bệnh lupus ban đỏ hệ thống (Alevizos và Illei, 2010; Furer et al., 2010; Iborra et al., 2012; Pauley et al. , 2009).
Ở bệnh nhân MS, có các miRNA khác nhau liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh (Keller và cộng sự, 2009). miR-141, miR-155 và miR-200 là các miRNA liên quan đến Th17 được coi là thành phần nổi bật trong quá trình phát triển bệnh đa xơ cứng.
Các miRNA được đề cập làm tăng thêm sự khác biệt của Th17, do đó, sự điều hòa Th17 và cơ chế bệnh sinh MS có liên quan chặt chẽ đến các miRNA này (Chen và cộng sự, 2018).
Do đó, việc ức chế miR-141, miR-155 và miR-200 có thể hạn chế sự biệt hóa của tế bào Th17 và bài tiết các cytokine của nó, bao gồm IL-17 và IL-23, giúp ngăn ngừa tình trạng viêm.
Liệu pháp ozone là gì?
Liệu pháp ozone, hiện nay được đánh giá là một phương pháp trị liệu mới đầy tiềm năng đối với nhiều mục đích và điều trị bệnh khác nhau.
Khí Ozone (O3) là một chất chống oxy hóa mạnh được phát hiện vào thế kỷ 19. O3 được tạo thành từ ba nguyên tử oxy, được xác định là phân tử không ổn định, vô cơ và hòa tan trong nước (Elvis và Ekta, 2011; Zanardi et al., 2016).
Do trạng thái mesomeric của O3, nó có tương tác nhất thời với nước và chính nó, chu kỳ bán rã của O3 là 40 ngày ở nhiệt độ 20 độ C. Ozone có tác dụng bảo vệ chống lại tác dụng phụ của tia UV (Di Paolo và cộng sự, 2004).
Hiện nay, đã có nhiều thêm nhiều minh chứng khoa học khẳng định rằng liệu pháp ozone có chức năng điều trị như tác dụng ức chế vi khuẩn, ký sinh trùng và nhiễm nấm (Madrigal, 2007).
Một số nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng và tiền lâm sàng đã được thực hiện để đánh giá giá trị điều trị của liệu pháp ozone trong các rối loạn khác nhau, bao gồm các bệnh cấp tính và mãn tính, bệnh mạch máu ngoại biên, rối loạn tim mạch, thần kinh, tiêu hóa, chỉnh hình và tiết niệu sinh dục (Smith et al., 2017; Romero Valdes và cộng sự, 1993).
Liệu pháp ozone giúp ngăn chặn hiệu quả nguyên nhân gây bệnh đa xơ cứng
Vào năm 2020, nghiên cứu ‘Những thay đổi về tần số và chức năng của tế bào Th17 sau khi điều trị bằng ozone được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng’ đã được công bố.
Tại nghiên cứu này, các nhà khoa học đã tập trung vào việc đánh giá sự thay đổi của tế bào Th17, các cytokine liên quan (IL-17 và IL-23), yếu tố phiên mã (RORɣt) và miRNA (miR-141, miR-155 và miR-200) trước và sau ozone điều trị ở bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng.
Theo đó, để đánh giá, nhóm nghiên cứu đã cho 20 bệnh nhân MS thử nghiệm điều trị bằng liệu pháp ozone, theo phương pháp trộn 100 ml hợp chất O2/O3 (nồng độ 25 ugs/ml) với 100 ml máu tự thân, hai lần mỗi tuần trong 6 tháng.
Trong quá trình này, tần số tế bào Th17, biểu hiện gen của các yếu tố liên quan (RORɣt, IL-17, IL-23, miR-141, miR-155 và miR-200), cũng như mức độ bài tiết IL-17 và IL- 23 cytokine được so sánh giữa bệnh nhân và nhóm đối chứng, cũng như nhóm bệnh nhân trước và sau liệu pháp ozone bằng phương pháp đo tế bào dòng chảy, PCR thời gian thực và kỹ thuật ELISA tương ứng.
Kết quả cho thấy, ở các bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp ozone có sự giảm đáng kể về tần số của các tế bào Th17 (P = 0,0002), mức biểu hiện của RORɣt và IL-17 (P = 0,0001 và P = 0,0004, tương ứng), cũng như miR-141 và miR-155 ( P<0,0001 và P<0,0001, tương ứng) ở điều kiện sau xử lý bằng ozone so với điều kiện trước điều trị.
Ngoài ra, sự giảm đáng kể mức độ bài tiết IL-17 (P = 0,043) cũng được ghi nhận ở những bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp y tế thay thế này.
Từ kết quả trên, các nhà khoa học thuộc nghiên cứu kết luận rằng, vì mức độ và phản ứng của tế bào Th17 tăng lên có thể có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học và tình trạng viêm của MS, các phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng liệu pháp tự điều trị bằng ozone có thể làm giảm phản ứng Th17 trong máu ngoại vi của bệnh nhân MS và có thể là một phương pháp có lợi trong điều trị MS.
Hỗ trợ biên dịch: BS. Phan Thanh Hào – chủ tịch Chi hội chống lão hóa thuộc Hội Tế bào gốc TP. HCM
Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S2211034820305411