Tác dụng của Ozone y tế trong điều trị bệnh và nâng cao sức khoẻ tổng thể
Cùng tìm hiểu về Ozone y tế (Medical Ozone), một khái niệm được nhiều bạn đọc, khách hàng của Ozone Wellness và chuyên gia y tế quan tâm gần đây.
Cùng tìm hiểu về Ozone y tế (Medical Ozone), một khái niệm được nhiều bạn đọc, khách hàng của Ozone Wellness và chuyên gia y tế quan tâm gần đây.
Ozone y tế là gì?
Ozone y tế là chất khí cấu tạo từ oxy nguyên chất (chiếm 95,0 đến 99,5%) và một lượng nhỏ ozone (0,5-5,0%). Hỗn hợp này được sử dụng trong điều trị nhiều loại bệnh, bao gồm cả mãn tính và cấp tính nhờ đặc tính điều hoà căng thẳng oxy hoá.
Theo các chuyên gia, căng thẳng oxy hóa gốc tự do là một trong những nguyên nhân khiến người bệnh sản xuất không đủ năng lượng và cơ thể mệt mỏi. Kết quả sau khi điều trị bằng ozone tế cho thấy, tình trạng mệt mỏi được cải thiện ở hầu hết các bệnh nhân.
Ozone y tế và Sản xuất gốc tự do
Hầu hết các phân tử sinh học đều có hai electron ở lớp vỏ bên ngoài và tính chất ổn định. Tuy nhiên, gốc tự do lại chỉ chứa một electron ở lớp ngoài cùng, không ổn định và dễ phản ứng.
Gốc tự do có thể phản ứng với các hóa chất khác theo 3 cách như sau: tách một electron từ một phân tử khác (bị khử); phản ứng với một gốc tự do khác tạo thành liên kết cộng hóa trị ổn định; hoặc “nhường” electron cho một phân tử khác (bị oxy hóa).
Kết quả, các phân tử mới lần lượt trở thành các gốc tự do và phải tách hoặc chia sẻ các electron, do đó hình thành thêm nhiều gốc tự do mới. Những phản ứng này được tăng cường bởi các ion sắt, coban, đồng và niken (ví dụ như trong hiện tượng tan máu).
Nguồn gốc của các gốc tự do là virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, hô hấp và trao đổi chất bình thường, tiếp xúc với các chất ô nhiễm, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tia X, chấn thương và căng thẳng. Các gốc tự do xuất hiện tự nhiên là oxit nitric (NO), ion hydroxyl (OH-) và anion oxy (O-), còn được gọi là oxy nhóm đơn, những chất này là kết quả của sự phân hủy phân tử ozone.
Gốc tự do được sản xuất ở cấp độ ty thể do thiếu máu cục bộ (ít O2) hoặc nhu cầu chức năng quá mức của tế bào (việc sử dụng oxy kém).
Khi ozone y tế đi vào phần nước của huyết tương, ưu tiên hàng đầu là tấn công lipid, đặc biệt là các axit béo không bão hòa đa (PUFA). Thứ hai, ozone y tế được trung hòa bởi các chất chống oxy hóa như vitamin E, C, glutathione, bilirubin, protein giàu cysteine và carbohydrate. PUFA được tìm thấy trong thành và màng tế bào, lipoprotein, chất béo trung tính và chylomicron. Kết quả của phản ứng ozone-lipid này là ozonide, peroxit, aldehyd và các gốc tự do khác được hình thành.
Các gốc tự do này phá hủy tế bào bằng cách đục lỗ (làm hỏng màng tế bào) và hỏng DNA.
Ozone y tế không phải là gốc tự do và cũng không gây ra tổn thương đáng kể đến các gốc tự do khi được đưa vào cơ thể vì:
- Lượng ozone y tế được đưa vào tương ứng với lượng mô có trong cơ thể (máu được coi là mô)
- Ngay khi vào cơ thể, ozone phản ứng với các hóa chất mô như PUFA, vitamin C, glutathione, v.v. đã đề cập ở trên.
- Ozone y tế không bao giờ được tiêm trực tiếp vào mạch máu.
- Các sản phẩm phụ của phản ứng hóa học với ozone ở mô được chuyển hóa dễ dàng ở gan và thận.
Ozonide và peroxit được hình thành khi tiếp xúc với ozone-lipid không độc hại như ozone khi tiếp xúc trực tiếp với các mô. Chính vì lý do này, ozone sau khi được sục qua chất trung gian là dầu ô liu bằng máy khuếch tán có thể sử dụng để hít vào mà không gây tổn hại cho hệ hô hấp. - Như đã đề cập ở trên, bản thân ozone y tế có các cặp electron ghép đôi ở lớp vỏ bên ngoài. Giống như nước, nó là một phân tử lưỡng cực từ, được thể hiện bằng cấu trúc hóa học O=O-O, liên quan đến liên kết ion. Thế năng từ tính của phân tử lưỡng cực ngăn cản sự hình thành gốc tự do trong môi trường nước có độ pH nhỏ hơn 8, là độ pH không có trong cơ thể con người.
Tuy nhiên, khi phân tử ozone phản ứng với các chất trong cơ thể, chẳng hạn như glutathione bị khử, sẽ tạo ra một phân tử O3 không ổn định và cuối cùng tạo ra gốc hydroxyl. Đây là chất oxy hóa mạnh nhất được biết đến trong hóa học.
Tác dụng của việc đưa Ozone y tế vào hệ thống sinh học
Bác sĩ Paracelsus là người đầu tiên quan sát thấy phương pháp chữa bệnh giống như vậy. Ví dụ, vắc xin (tiêm vi khuẩn) sẽ kích thích một quá trình cho phép cơ thể để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Ozone y tế cũng hoạt động như vậy.
Ngoài ra, hiện tượng Arndt-Schultz cũng đề cập đến một chất có tác dụng kích thích ở liều lượng nhỏ, điều chỉnh ở liều lượng lớn hơn và ức chế ở liều lượng lớn hơn nữa. Và ozone y tế cũng là một chất như vậy.
Cuối cùng, tình trạng căng thẳng oxy hóa gốc tự do xuất phát từ thiếu khả năng đệm, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự tích tụ các gốc tự do dư thừa. Ozone y tế “kích hoạt” hệ thống đệm gốc tự do và khắc phục vấn đề này.
Khi kết hợp 3 nhận định này lại với nhau, có thể thấy rằng liệu pháp ozone là một giải pháp hiệu quả cho các vấn đề sức khỏe.
Khi sử dụng đúng liều, ozone y tế sẽ kích thích hệ thống đệm gốc tự do, tiêu diệt virus, nấm và ký sinh trùng, đồng thời kích thích sản xuất tất cả các hệ thống cytokine của cơ thể, đặc biệt là interleukin-2, interferon, yếu tố hoại tử khối u và kích thích sản xuất bạch cầu.
Do đó, ozone y tế cho thấy khả năng loại bỏ vi khuẩn bằng cả cách tiêu diệt trực tiếp và gián tiếp như trong ví dụ về vắc xin.
Không chỉ vậy, một bài báo xuất bản đầu năm 2004 trên tạp chí “Science” của nhóm nhà nghiên cứu từ Viện Scripps ở San Diego, California, đã chứng minh rằng tất cả các kháng thể đều có thể tạo ra ozone y tế.
Ngoài tác dụng kháng khuẩn, ozone y tế còn phá vỡ các chất hóa dầu, tăng tính linh hoạt và đàn hồi của hồng cầu, đồng thời oxy hóa mảng bám động mạch. Quan trọng hơn hết, ozone y tế làm tăng enzyme hồng cầu 2, 3 DPG, chất xúc tác giải phóng oxy từ tế bào hồng cầu vào các mô, và đẩy nhanh chu trình Krebs hoặc axit citric.
Tiếp theo, hãy cùng Ozone Wellness thảo luận về lợi ích quan trọng cuối cùng của ozone y tế.
Ozone y tế và Sản xuất năng lượng
Đặc điểm của các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính là cơ thể họ sản xuất không đủ năng lượng. Điều này làm giảm nhiệt độ cơ thể, sản xuất ATP và tốc độ trao đổi chất cơ bản.
Giả sử, khi chức năng tim phổi bình thường và không bị thiếu máu, nguyên nhân có thể gây ra tình trạng thiếu chuyển hóa năng lượng là:
- Tăng tích tụ fibrin trong mao mạch do đông máu bất thường do miễn dịch
- Giảm sự hấp thu tế bào của chất béo và glucose, do dư thừa insulin mạn tính thứ phát do kháng insulin. (Đây luôn là vấn đề ở bệnh nhân tiểu đường và người trên 50 tuổi.)
- Rối loạn chức năng ty thể, nơi diễn ra quá trình chuyển hóa glucose.
Năng lượng trong cơ thể có nguồn gốc từ chất béo, carbohydrate (glucose) và protein. Nhưng bất kể từ nguồn nào, các sản phẩm trao đổi chất cuối cùng đều kết thúc trong chu trình axit citric.
Khối lượng năng lượng được giải phóng từ một mol (180 gram) glucose là 686.000 calo. Trong số này, 230.000 calo được sử dụng tạo nhiệt và 456.000 calo có thể lưu trữ dưới dạng ATP( adenosine triphosphate), đơn vị tiền tệ năng lượng chính của cơ thể.
Trên thực tế, có 4 giai đoạn chuyển hóa glucose trong quá trình sản xuất năng lượng dưới dạng ATP.
Giai đoạn đầu tiên là quá trình đường phân, tạo ra axit pyruvic và 2 phân tử ATP từ mỗi phân tử glucose và giải phóng bốn nguyên tử hydro.
Giai đoạn tiếp theo là sự hình thành acetylcoenzym A, được thực hiện bằng cách kết hợp axit pyruvic với coenzym A, một dẫn xuất của axit pantothenic. Phản ứng này không tạo ATP nhưng giải phóng bốn nguyên tử hydro được sử dụng để tạo ra nhiều ATP hơn trong chu trình axit citric và chuỗi vận chuyển điện tử.
Chu trình axit citric
Acetylcoenzym A khởi động chu trình axit citric, giải phóng 16 nguyên tử hydro sau đó chúng phải chuyển qua tám bước của chu trình axit citric. Điều này được thực hiện bởi nicotinic adenine dinucleotide (NAD+).
Mỗi NAD+ được chuyển đổi thành NADH theo ba bước của chu trình axit citric. Còn FAD được chuyển đổi thành FADH2 ở bước sáu tương tự như sản xuất NADH.
Sự tích tụ axit pyruvic (do không đủ oxy) và NADH làm ngừng quá trình glycolytic. Đối với mỗi phân tử glucose, chu trình axit citric xảy ra hai lần, tạo ra thêm hai phân tử ATP.
Ozone y tế và Hệ thống vận chuyển electron
Ở tầng khí quyển phía trên, tầng ozone bảo vệ trái đất khỏi tác hại của một bước sóng cực tím nhất định khi đến trái đất (cách trái đất 20-30 km). Ở tầng khí quyển thấp hơn, ozone bảo vệ con người khỏi bị ô nhiễm bởi hydrocarbon bằng cách phản ứng với chúng dẫn đến hình thành CO2 & H2O không độc hại.
FAD và NAD được cung cấp bởi quá trình phosphoryl oxy hóa, nguồn sản xuất năng lượng chính trong cơ thể. Điều này xúc tác quá trình khử hydro và hình thành nước, giải phóng ATP.
Do NADH và FADH2 được cung cấp bởi chu trình axit citric nên khi hệ thống phosphoryl chậm lại thì hệ thống kia cũng vậy bởi sự phụ thuộc lẫn nhau. Ngoài ra, những bệnh nhân bị bệnh mãn tính được thấy rằng có tỷ lệ NAD/NADH thấp hơn mức độ biểu thị phosphoryl hóa oxy hóa.
Bằng cách sử dụng ozone y tế để oxy hóa thành NAD và FAD, lượng coenzyme A tăng lên để cung cấp năng lượng cho chu trình axit citric và quá trình phosphoryl oxy hóa. Một số nghiên cứu đã cho thấy tổng lượng ATP sản xuất tăng 40% sau khi điều trị bằng ozone và tỷ lệ NAD/NADH giảm ở tất cả những người bị bệnh.
Tác dụng điều trị khác của Ozone y tế
Ozone y tế còn phát huy tác dụng điều trị trong kích hoạt hệ thống miễn dịch. Ở đây chúng ta thấy sự giải phóng sinh lý của các cytokine (interferone, interleukin và yếu tố hoại tử khối u). Có nghiên cứu đã chứng minh rằng ozone y tế chịu trách nhiệm giải phóng tối đa các cytokine là 78 gamma. Điều này cho thấy rằng ozone y tế có tác dụng với các bệnh đi kèm với sự suy giảm miễn dịch và như một liệu pháp bổ sung trong điều trị ung thư.
Ngoài ra, Ozone y tế cũng kích hoạt các tế bào hồng cầu bằng cách tăng ATP và 2, 3 diphosphoglyerate, giúp dễ dàng giải phóng oxy từ hemoglobin có sẵn cho các mô. Ở đây, chỉ định sử dụng ozone y tế có thể dành cho bất kỳ rối loạn tuần hoàn nào, ngoại biên hoặc trung ương (ví dụ như động mạch não).
Một nhóm hóa chất khác được kích hoạt bởi ozone y tế là chất chống oxy hóa enzyme và các chất loại bỏ gốc tự do như super oxit effutase, catalase và reductase, được tạo ra và kích hoạt. Từ đó làm tăng khả năng chống oxy hóa của sinh vật. Cơ chế của quá trình này là sự tăng cường của hệ thống peroxidase glutathione, chịu trách nhiệm chính cho hệ thống đệm chống oxy hóa của cơ thể.
Việc tăng cường sản xuất và cải tiến các hệ thống được kích thích bằng cách xử lý ozone y tế. Trong trường hợp này, vitamin E và C chỉ có thể hỗ trợ các hệ thống đệm chống oxy hóa chứ không thể khắc phục được tổn thương cơ bản. Do đó, ozone y tế có lợi cho việc điều trị viêm khớp, căng cơ, điểm kích hoạt, bệnh mạch máu và lão hóa và cũng trực tiếp tiêu diệt vi sinh vật.
Nếu bạn đang thắc mắc, “Những hiện tượng này có phải chỉ do oxy tạo ra không?” thì câu trả lời là không. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ có việc bổ sung ozone y tế mới gây ra hoặc tăng cường các hiện tượng nêu trên.
Hỗ trợ biên dịch: BS. Phan Thanh Hào – chủ tịch Chi hội chống lão hóa thuộc Hội Tế bào gốc TP. HCM
Biên dịch từ nguồn: https://austinozone.com/education/medical-ozone/