Những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử dân tộc, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Kể từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã giành những thắng lợi “vô tiền khoáng hậu”.
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử dân tộc, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Kể từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã giành những thắng lợi “vô tiền khoáng hậu”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng đầu thế kỉ XX
Từ rất sớm tư bản phương Tây nói chung và tư bản Pháp nói riêng đã nhòm ngó Việt Nam, trong đó tư bản Pháp đã lợi dụng Đạo Thiên Chúa để từng bước tiến hành xâm lược. Cuối thế kỉ XVIII, để đối phó với Phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh cầu viện tư bản Pháp thông qua việc ký Hiệp ước Véc xai năm 1787. Từ giữa thế kỉ XIX, nước Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản, để phục vụ nhu cầu phát triển của mình, đồng thời tranh giành ảnh hưởng với nước Anh ở khu vực châu Á, Pháp đã ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam. Năm 1857, vua Napoleon III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta, đồng thời cho sứ thần tới Huế đòi được “tự do buôn bán và truyền đạo” ở Việt Nam. Chiều 31/8/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Sáng ngày 1/9/1858, Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam.
Trong và sau quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, tiêu biểu là: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến (phong trào Cần Vương (1885 – 1896), phong trào nông dân Yên Thế (1884 – 1913)); Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX: Phong trào Đông Du; Phong trào Duy Tân; Khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng lãnh đạo (1930)…
Sự phát triển của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX diễn ra sôi nổi nhằm giải phóng dân tộc giành độc lập cho dân tộc trên các lập trường giai cấp khác nhau như khôi phục chế độ phong kiến, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đó diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; dựa vào Pháp để thực hiện cái cách, hoặc dựa vào ngoại viện (như Nhật) để đánh Pháp… nhưng cuối cùng đều thất bại.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một tất yếu, nó chứng tỏ giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản và hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng dân chủ tư sản không đủ năng lực để lãnh đạo phong trào yêu nước, giải quyết thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra lúc này là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
Trước yêu cầu của lịch sử, mùa hè năm 1911, Nguyễn Văn Ba (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã lên tầu sang phương Tây tìm đường cứu nước. Lựa chọn phương Tây để tìm đường cứu nước là sự lựa chọn của lịch sử, trên cơ sở từ việc chứng kiến con đường cứu nước của các bậc tiền bối đi về phương Đông, Nguyễn Tất Thành đã không đi theo “vết xe đổ” của họ, mà tìm một hướng đi hoàn toàn mới với quan điểm “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, đi tìm “gót chân Asin” – điểm yếu của kẻ thù.
Sau 10 năm tìm tòi, khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, tháng 7/1920, Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, qua đó đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước bình thường trở thành người cộng sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1
Sau khi trở thành người cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực nghiên cứu, học tập, truyền bá lý luận cách mạng vô sản. Đồng thời có những chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam – Ảnh tư liệu
Để giải quyết nguy cơ chia rẽ trong phong trào cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu của lịch sử, cuối năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Từ ngày 6/1/1930 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp tại Hương Cảng đã quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời thông qua các văn kiện Chính cương văn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”2.
Những thắng lợi vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập với các phong trào cách mạng lớn: từ phong trào cách mạng 1930 – 1931, Phong trào đấu tranh dân chủ 1936 – 1939, Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945, trực tiếp là cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tháng 3 đến tháng 8/1945.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ chế độ thuộc địa 5 năm của phát xít Nhật, 87 năm của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng nền cộng hòa dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc được mở ra, kỷ nguyên dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, được làm chủ đất nước và xã hội, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, thực hiện các quyền cơ bản của con người.
Cách mạng Tháng Tám đã kết hợp đúng đắn đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, thống nhất lợi ích của các giai cấp với lợi ích tối cao của dân tộc, kết hợp chặt chẽ mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng độc lập, tự do và ý chí tự lực, tự cường, quyết “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” như lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu rõ. Đó là thắng lợi của đường lối cứu nước và sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh và vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng trong cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả của quá trình Đảng chủ động nắm bắt thời cơ cách mạng, phát động và lãnh đạo cao trào cách mạng cứu nước, phát triển tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc tạo ra thực lực cách mạng, phát triển sức mạnh trong nước để khi nhân tố bên ngoài thuận lợi xuất hiện, Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đảng đã chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa. Triệt để tận dụng thời cơ đồng thời chủ động đẩy lùi nguy cơ: thực dân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945 và quân Đồng Minh kéo vào giải giáp quân Nhật và có ý đồ phá hoại nền độc lập của Việt Nam. Chớp đúng thời cơ và đẩy lùi nguy cơ là thành công nổi bật của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đánh giá ý nghĩa lớn lao của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”3.
Thắng lợi trong cuộc chiến chống “thù trong giặc ngoài”, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ buổi đầu thành lập.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước muôn vàn khó khăn, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới được kiến lập, quân đội, công an vừa được thành lập. Kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ruộng đất bỏ hoang tới 50%, nạn đói cũ chưa khắc phục xong, nguy cơ nạn đói mới đang đe dọa; ngân khố trống rỗng, trong khi đó, Chính phủ cách mạng không quản lý Ngân hàng Đông Dương; quân đội Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc tung tiền mất giá ra tiêu thụ… Về ngoại giao, do lợi ích cục bộ nên chưa quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Sự chống phá của các thế lực phản động trong nước cùng với sự hiện diện của hàng vạn quân đội các nước trên lãnh thổ nước ta đã thực sự đe dọa độc lập, an ninh và hòa bình của Việt Nam. Vận mệnh dân tộc đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Vận mệnh độc lập, tự do của dân tộc đang dứng trước nguy cơ mất còn.
Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng, Chính Phủ và Hồ Chủ tịch đã sáng suốt đề ra Chỉ thị Kháng chiến Kiến quốc, từng bước đưa đất nước thoát ra khỏi tình thế “hiểm nghèo”. Chính quyền cách mạng được củng cố, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch ngày càng nâng cao. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập ấy.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt, giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ (1946 – 1954) và chủ nghĩa thực dân mới (1954 – 1975), hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự, độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, Đảng đã phát triển phong phú các hình thức chiến tranh nhân dân, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam, kết hợp Kháng chiến với Kiến quốc đã đưa kháng chiến đến thắng lợi với Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và ký kết Hiệp định Geneve, miền Bắc hoàn toàn giải phóng có điều kiện thuận lợi, hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn 1954 – 1975, Đảng lãnh đạo đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chiến lược cách mạng khác nhau là đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954-1975 và cũng là điểm đặc biệt trên thế giới, điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Xe tăng Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam húc đổ cổng Dinh Độc lập – ngày 30/4/1975
Cùng với đường lối cách mạng, Đảng phát triển sáng tạo về phương pháp cách mạng. Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ. Thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Nắm vững phương châm chiến lược đánh địch lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch để giành thắng lợi cuối cùng.
Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở Việt Nam chứng minh: “một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lênin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược”4.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đề ra là bước đổi mới quan trọng về tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những luận điểm của Karl Marx và V.I.Lenin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hiểu rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới cũng là kết quả của quá trình tổng kết, tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, từng bước khắc phục lối tư duy chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội và thấy rõ sự cần thiết phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở sáng kiến, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân và do đó trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống.
Quang cảnh Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam – năm 2021
Sau 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quản lý hành chính, tập trung, quan liêu bao cấp, nền kinh tế trao đổi bằng hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ra khỏi tình trạng của nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình (2008), phấn đấu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật chất và văn hóa tinh thần. Chính trị, xã hội ổn định và hệ thống chính trị vững mạnh với vai trò của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quan hệ đối ngoại mở rộng, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 6 nước là đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược, 12 nước đối tác toàn diện.
Bà Rịa – Vũng Tàu – Điểm đến của những siêu du thuyền quốc tế (tác giả: Đỗ Tuấn Hùng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Tổng kết 35 năm tiến hành đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”5.
Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2024), nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc, chúng ta càng cảm phục về tư tưởng, tầm vóc và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung, trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam luôn tự hào khi đang được sống, lao động và học tập trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo sáng suốt đúng đắn của Đảng. Do vậy, việc tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo của Đảng, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần tích cực vào hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống, đưa đất nước trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Tài liệu tham khảo:
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.314.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.12, tr.406.
3.Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 25.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, trang 489.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 1, trang 24,25
Thạc sỹ Vũ Văn Chương – Đại học Hải Phòng