Quân đội Nhân dân Việt Nam 80 năm truyền thống anh hùng
Cách đây 80 năm, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân – tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập.
Cách đây 80 năm, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Từ rất sớm, Đảng ta đã khẳng định tầm quan trọng của lực lượng vũ trang và công tác “võ trang bạo động” có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng đã chỉ rõ: “Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý”1. Trong suốt quá trình vận động, lãnh đạo cách mạng của Đảng, công tác xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được Đảng ta đặc biệt coi trọng.
Sau khi cuộc khởi nghĩa vũ trang Bắc Sơn (Lạng Sơn) thất bại vào cuối tháng 9/1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (11/1940) họp tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh đã quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn và phát triển thành Đội Cứu quốc quân. Ngay sau khi về nước vào tháng 1 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quyết định thành lập một đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang.
Cuối năm 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước đã kịp thời ra quyết định đình chỉ các cuộc chiến tranh du kích vì nổ ra chưa đủ điều kiện, đồng thời Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Cao Bằng. Ngay sau khi ra đời, với 34 chiến sỹ, trang thiết bị vũ khí thô sơ, đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944).
Tháng 3/1945, sau khi phát xít Nhật đảo chính quân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại Đình Bảng – Từ Sơn – Bắc Ninh, đề ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng các đội quân cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa cách mạng, phát động chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện. Tháng 5/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang trong cả nước thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến khu kháng Nhật trong cả nước.
Dưới sự lãnh đạo, xây dựng, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội Nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đoàn kết cùng toàn đảng, toàn dân làm nên những chiến thắng huy hoàng, xứng đáng là công cụ sắc bén, lực lượng chính trị vững mạnh, trung thành của Đảng và dân tộc, lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp đấu tranh sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ 8 tháng sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã góp phần quan trọng cùng toàn thể dân tộc làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, lật đổ ngai vàng của chế độ phong kiến gần 1000 năm, đập tan xiềng xích nô lệ 87 năm của thực dân Pháp, 5 năm của phát xít Nhật, giành độc lập dân tộc, tạo tiền đề cho sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước cộng hòa đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
Qua thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946 – 1975). Quân đội ta từng bước lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta cùng với sự đoàn kết đồng lòng của toàn dân tộc đã từng bước giành những thắng lợi to lớn về mặt quân sự như: Đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch, kìm chân địch trong các thành phố, tạo điều kiện về thời gian cho các cơ quan trung ương, chính phủ chuyển lên Việt Bắc tiến hành kháng chiến lâu dài; đánh bại chiến dịch Việt Bắc 1947 của địch; Giành thắng lợi trong chiến dịch Biên giới 1950; thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954, đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn nằm dưới sự thống trị của thực dân, tay sai, âm mưu phá hoại Hiệp định Giơneve chia cắt lâu dài nước ta. Đế quốc Mỹ trực tiếp nhảy vào can thiệp, viện trợ quân sự, cử cố vấn, điều lính Mỹ và chư hầu trực tiếp sang tham chiến tại miền Nam Việt Nam, đồng thời cho không quân và hải quân đánh phá ác liệt miền Bắc. Chưa bao giờ đất nước ta phải đối phó với kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo như vậy.
Trước tình thế cách mạng đó, tháng 12/1965, Trung ương Đảng đã đề ra Đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội đã đoàn kết cùng nhân dân tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, bảo vệ “hậu phương lớn”, từng bước chi viện cho “tiền tuyến lớn”. Ở miền Nam, quân đội luôn phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh quân sự, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, thực hiện đa dạng các phương thức tác chiến, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, tạo thành sức mạnh tổng hợp từng bước đánh bại các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 – 1973), buộc Mỹ phải “cút” bằng việc ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27/1/1973 và Ngụy “nhào” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Xe tăng quân giải phóng Miền Nam húc đổ cổng Dinh Độc lập ngày 30/4/1975, báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh hoàn toàn thắng lợi
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam kế tiếp nhau luôn thực hiện tốt chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".2
Để tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, Đảng ta đã đưa ra một số chủ trương, định hướng nhằm xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Một là, Tiếp tục xây dựng Quân đội Nhân dân, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”
Hai là, Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo, khu kinh tế, khu công nghiệp trọng điểm. Đồng thời thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hành động của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, an ninh.
Ba là, Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống, kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy, trong quá trình xây dựng Quân đội Nhân dân tinh nhuệ, hiện đại, không thể thiếu yếu tố khoa học – công nghệ. “Đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng khoa học, công nghệ trong nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; phát triển công nghệ quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học – công nghệ cao,…”(3)
Bốn là, Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vũng chắc.
Năm là, Chủ động đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, phòng ngừa ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo,… Kịp thời đấu tranh trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao,…
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia,…
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn được Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân hết sức quan tâm, chăm lo, dành cho những tình cảm đặc biệt gắn với hình ảnh “Bộ đội cụ Hồ”. Phát huy truyền thống 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn quyết tâm nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện Đảng toàn tập: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2002, tập 2, tr.106
- Hồ Chí Minh Toàn tập: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội năm 2011, tập 14, tr.435.
- Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.279.
- Vũ Văn Chương